Điệu tính Trưởng và thứ

 Âm giai đối xứng trưởng và thứ trên âm giai đô trưởng: Những nốt giống nhau được nối với nhau bằng một đường thẳng, nốt chủ và nốt bậc 5 của hợp âm chính.

Dấu hiệu để phân biệt một Điệu tính trưởng và thứ là xem xét xem bậc 3 của âm giai là trưởng hay thứ." . “Sự khác biệt quan trọng nhất là trong âm giai thứ là giữa “nốt thứ 2 và 3” và giữa “nốt thứ 5 và 6” cách nhau nửa cung trong khi trong âm giai trưởng thì là “nốt 3 và 4” và “nốt 7 và 8”. Sự khác biệt tại bậc 3 này “tác động rất lớn” đến sự mượt mà của một tác phẩm, và những tác phẩm có âm giai thứ thường tạo cảm giác nghiêm túc và u buồn hơn.

Những điệu tính thứ

Âm giai thứ có thể được mô tả bằng 2 cách khác nhau. Cách thứ nhất là coi nó như một mô hình bậc 6 của âm giai trưởng, cách thứ 2 là xem nó như một biến thể của âm giai trưởng, với bậc 3 của nó luôn thấp hơn(hay khác) và bậc 6 và 7 cũng vậy.

Những Điệu tính thứ đôi khi được cho là hấp dẫn hơn, có chiều sâu hơn so với sự bằng phẳng của Điệu tính trưởng.[2] Mô hình thứ, với những biến thể bậc 6 và 7, tạo ra 9 nốt, trong Đô: C-D-E♭-F-G-A♭-A♮-B♭-B♮, trên mô hình trưởng 7 nốt, trong Đô: C-D-E-F-G-A-B.

Harry Partch xem âm giai thứ như “một sự bất biến về tỷ lệ, cái mà đại diện cho sự cố định trong việc thưởng thức âm nhạc của con người."[3] Điệu tính và âm giai thứ được cho là không hợp lý bằng trưởng, còn Paul Hindemith gọi nó là điệu tính và âm giai trưởng “mờ” trong khi Moritz Hauptmann thì cho nó là “một phiên bản lỗi của điệu tính và âm giai trưởng.

Điệu tính trưởng và thứ tương ứng

Điệu tính thứ tương ứng của một Điệu tính trưởng có cùng dấu hóa và hạ xuống một quãng 3 thứ(hay tăng một quãng 6 trưởng tương ứng); ví dụ, một điệu tính thứ tương ứng của Son trưởng là Mi thứ. Tương tự một Điệu tính trưởng tương ứng của một Điệu tính thứ tăng lên một quãng 3 thứ(hay hạ xuống một quãng 6 tương ứng); ví dụ, Điệu tính trưởng của Fa thứ là La giáng trưởng.

Mối quan hệ với “mode”

Một cách đối lập, sự biến đổi của “mode”, thường là quãng 3 hoặc một hợp âm mượn(mode mixture), thường được phân tích như những thay đổi nhỏ hay không quan trọng nếu như không được hỗ trợ một cách hệ thống vì nốt chủ(root), Điệu tính và Giọng điệu là không thay đổi. Ví dụ, điều này thì đối lập với sự chuyển giọng(Transposition). Sự chuyển giọng được thực hiện bằng cách thay đổi tất cả các quãng lên hoặc xuống một quãng nhất định, và thay đổi Điệu tính, nhưng không thay đổi “mode”, điều này yêu cầu những quãng khác nhau. Việc sử dụng hợp âm 3 rất phù hợp trong một “mode” thứ, như là việc sử dụng A♭ trưởng trong C trưởng, là một kĩ thuật chromatic “chromaticism”, được hiểu như là việc thêm màu sắc hay giảm cường độ của Điệu tính mà không loại bỏ hay phá hủy hoàn toàn nó.

Các thể loại

Trong lý thuyết âm nhạc phương Tây, các Điệu tính, Hợp âm và Âm giai thường được mô tả như có Giọng điệu trưởng và thứ, đôi khi liên quan đến loại Nam tính(masculine) và Nữ tính(feminine), đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ sử dụng bộ cú pháp cố định. Trong sự so sánh giống nhau, âm giai trưởng được cho là có tính chất chuẩn về Nam tính(rõ ràng, cởi mở, hướng ngoại), trong khi bộ âm giai thứ mang tính chất chuẩn của Nữ tính(sâu lắng, mềm mại, hướng nội). Người Đức thường dùng từ “Tongeschlecht”(“Loại Tông”) để chỉ Giọng điệu, và từ “Dur”(Tiếng Latin là durus, nghĩa là ‘cứng’) để chỉ Trưởng và “Moll”(Tiếng Latin là mollis, nghĩa là ‘mềm’) để chỉ Thứ.